(BPH: BENIGN PROSTATIC HYPERPLASIA)
(Tài liệu dịch từ AUA Guideline 2020 về benign prostatic hyperplasia )
Tăng sinh tiền liệt tuyến (BPH) là một chẩn đoán mô học đề cập đến sự tăng sinh của cơ trơn và các tế bào biểu mô trong vùng chuyển tiếp của tuyến tiền liệt. Tỷ lệ và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng đường tiết niệu dưới (LUTS) ở nam giới già có thể tiến triển và là một chẩn đoán quan trọng trong việc chăm sóc sức khỏe bệnh nhân và phúc lợi xã hội. Trong việc quản lý bệnh LUTS khó chịu, điều quan trọng là các bác sĩ lâm sàng nhận thấy sự ảnh hưởng phức tạp của bàng quang, cổ bàng quang, tuyến tiền liệt và niệu đạo, ngoài thực tế là các triệu chứng có thể là do tương tác của các cơ quan này cũng như với thần kinh trung ương. Mặc dù điều trị nội khoa phổ biến hơn (và thường là tuyến đầu tiên) cho nam giới mắc bệnh LUTS do BPH, vẫn có những trường hợp lâm sàng trong đó phẫu thuật được chỉ định là can thiệp ban đầu cho LUTS / BPH.
Đánh giá lâm sàng và cận lâm sàng trước phẫu thuật:
– Trong đánh giá ban đầu về những bệnh nhân xuất hiện LUTS khó chịu có thể do BPH, bác sĩ lâm sàng sẽ xem xét bệnh sử, khám sức khỏe, sử dụng Chỉ số triệu chứng AUA (AUA-SI) và thực hiện phân tích nước tiểu.
– Bác sĩ lâm sàng sẽ xem xét đánh giá kích thước và hình dạng tuyến tiền liệt qua siêu âm ổ bụng hoặc qua trực tràng, hoặc soi bàng quang, hoặc bằng hình ảnh mặt cắt từ trước (tức là chụp cộng hưởng từ [MRI] / chụp cắt lớp vi tính [CT]) trước khi can thiệp phẫu thuật cho LUTS được quy cho BPH
-Bác sĩ lâm sàng cân nhắc thực hiện đánh giá PVR trước khi can thiệp phẫu thuật đối với LUTS do BPH.
– Bác sĩ lâm sàng cân nhắc đo lưu lượng niệu trước khi can thiệp phẫu thuật đối với LUTS do BPH
– Bác sĩ lâm sàng xem xét các nghiên cứu về lưu lượng áp lực trước khi can thiệp phẫu thuật đối với LUTS do BPH khi có sự không chắc chắn về chẩn đoán.
-Bác sĩ lâm sàng sẽ thông báo cho bệnh nhân về khả năng thất bại trong điều trị và sự cần thiết của các phương pháp điều trị bổ sung khi xem xét các phương pháp điều trị phẫu thuật và xâm lấn tối thiểu đối với LUTS thứ phát sau BPH.
Điều trị:
Điều trị LUTS do BPH Trọng tâm chính của hướng dẫn này là điều trị LUTS do BPH bằng cách sử dụng các kỹ thuật phẫu thuật thông thường và các liệu pháp phẫu thuật xâm lấn tối thiểu (MIST. Theo truyền thống, mục tiêu chính của việc điều trị là làm giảm bớt những lỗi khó chịu do BPO gây ra. Gần đây, việc điều trị cũng tập trung vào việc thay đổi sự tiến triển của bệnh và ngăn ngừa các biến chứng có thể liên quan đến BPH / LUTS, chẳng hạn như bí tiểu cấp tính.
–Điều trị nội khoa: Một loạt các loại thuốc dược lý được sử dụng để điều trị LUTS do BPH, bao gồm chất đối kháng alpha-adrenergic (thuốc chẹn alpha), chất chủ vận beta adrenergic, chất ức chế 5-alpha-reductase (5-ARI), thuốc kháng cholinergic, chất tương tự vasopressin, chất ức chế PDE-5 và thuốc trị liệu thực vật, có thể được sử dụng một mình hoặc kết hợp để uống lợi thế của các cơ chế hoạt động khác nhau của chúng. Ngược lại, tồn tại các tình huống lâm sàng khi quản lý thận trọng, bao gồm thay đổi lối sống (ví dụ: hạn chế chất lỏng, tránh các chất có đặc tính lợi tiểu) hoặc quản lý dược lý không đầy đủ hoặc không phù hợp, cần phải xem xét một trong nhiều thủ tục xâm lấn có sẵn để điều trị của LUTS được quy cho BPH.
-Can thiệp ngoại khoa: Chỉ định sử dụng một trong những phương thức này có thể bao gồm mong muốn của bệnh nhân là tránh dùng thuốc hàng ngày, liệu pháp y tế không đủ khả năng cải thiện LUTS khó chịu và một số tình trạng cần can thiệp tích cực hơn khi liệu pháp y tế không phù hợp. Loại thứ hai này bao gồm những bệnh nhân bị suy thận cấp và / hoặc mãn tính, bí tiểu khó chữa, nhiễm trùng tiểu tái phát và sỏi bàng quang hoặc tiểu máu đại thể được cho là thứ phát sau BPH Có các phương pháp can thiệp ngoại khoa được cân nhắc bởi bác sĩ lâm sàng:
Cắt đốt tuyến tiền liệt qua ngã niệu đạo (TURP)
TURP nên được cung cấp như một lựa chọn điều trị cho nam giới mắc bệnh LUTS do BPH. Phương pháp này đến nay vẫn được xem là “tiêu chuẩn vàng” trong điều trị bệnh. Một số ưu điểm của phương pháp này: không có đường mổ nên cảm giác về mặt thẩm mỹ và tâm lý tốt, sau mổ nhẹ nhàng do ít đau, nhanh lấy lại vận động do đó tránh được các biến chứng do nằm lâu, thời gian nằm viện ngắn..
Phẫu thuật mở: Áp dụng khi u xơ có trọng lượng > 70g, hoặc có biến chứng sỏi bàng quang hoặc túi thừa bàng quang. Có các biến chứng hay gặp như: chảy máu, nhiễm khuẩn, hẹp cổ bàng quang, đái không tự chủ, phóng tinh ngược dòng.
Tiêu hủy u xơ bằng kim qua đường niệu đạo (TUNA)
Ở phương pháp này, năng lượng tần số sóng vô tuyến được sử dụng để tạo nên những thương tổn hoại tử bên trong tiền liệt tuyến ở nhiệt độ khoảng 1.0000C.
Cắt ngang tuyến tiền liệt (TUIP)
Hơi nước truyền qua tuyến tiền liệt (TUVP)
Hóa hơi chọn lọc của tuyến tiền liệt (PVP)
Bạn đọc có thể liên hệ BS lâm sàng qua số điện thoại: 0919480180 để được tư vấn điều trị.