Sau cắt túi mật bệnh nhân thường thắc mắc về chế độ dinh dưỡng như thế nào là phù hợp? có lưu ý gì không? liệu cắt túi mật có ảnh hưởng gì tới sinh hoạt hàng ngày? Hãy cùng tìm hiểu theo nghiên cứu sau đây nhé.
1.Tổng quan về triệu chứng sau cắt túi mật
Sau khi cắt túi mật, bệnh nhân thường có các triệu chứng như đau bụng, khó tiêu và tiêu chảy, cho thấy mối liên quan giữa các triệu chứng cắt túi mật và chế độ ăn uống, mặc dù các chi tiết về mối liên quan này vẫn chưa rõ ràng. Nghiên cứu hiện tại đã điều tra giả thuyết rằng chế độ ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng và thực phẩm có liên quan đáng kể đến các triệu chứng sau phẫu thuật cắt túi mật.
Cắt túi mật nội soi là một phương pháp điều trị hiệu quả cho bệnh sỏi túi mật. Tuy nhiên, một số bệnh nhân sau phẫu thuật cắt túi mật báo cáo các triệu chứng sau phẫu thuật cắt túi mật như đau bụng, khó tiêu và tiêu chảy . Sự vắng mặt của túi mật sau khi cắt túi mật được báo cáo là làm chuyển hóa gan ruột nhanh chóng, tăng bài tiết và giảm tái hấp thu axid mật, và rút ngắn thời gian vận chuyển xuống đại tràng . Một số bệnh nhân sau phẫu thuật cắt túi mật bị tiêu chảy, có thể liên quan đến tình trạng kém hấp thu acid mật . Sau khi cắt túi mật, bệnh nhân có nhiều nguy cơ bị trào ngược dạ dày tá tràng, gây khó tiêu . Ngoài ra, đau bụng và hội chứng ruột kích thích đã được báo cáo ở những bệnh nhân sau phẫu thuật cắt túi mật, những triệu chứng này có thể liên quan đến rối loạn chức năng cơ vòng Oddi. Nghiên cứu về bệnh nhân Đài Loan không tuân theo hướng dẫn để duy trì chế độ ăn ít chất béo bị tiêu chảy nhiều hơn, cả 1 tuần và 3 tháng sau khi cắt túi mật . Chế độ ăn nhiều chất béo đã được chứng minh là làm tăng axid mật trong phân , và tiêu chảy có thể gây ra do tăng lượng axid mật vào ruột. Nghiên cứu này đã điều tra giả thuyết rằng chế độ ăn uống đầy đủ các chất dinh dưỡng và thực phẩm có liên quan đáng kể đến các Hội chứng sau cắt túi mật (Postcholecystectomy syndrome – PCS)
2.Kết quả nghiên cứu.
Đặc điểm của bệnh nhân có triệu chứng và không có triệu chứng
Sau khi cắt túi mật nội soi, bệnh nhân có triệu chứng có tiền sử bệnh tiêu hóa nhiều hơn bệnh nhân không có triệu chứng (Bảng 1). Bệnh nhân có triệu chứng cũng tập thể dục ít hơn (3 đến 4 lần mỗi tuần) so với bệnh nhân không có triệu chứng (5 đến 6 lần mỗi tuần) 3 tháng sau khi cắt túi mật nội soi. So sánh giữa bệnh nhân có triệu chứng và không có triệu chứng, không có sự khác biệt đáng kể về tuổi, giới tính, BMI, vòng eo, tiền sử gia đình mắc bệnh sỏi túi mật mật, thuốc, kinh nghiệm kiểm soát cân nặng trước đây, hút thuốc, uống rượu, sử dụng chất bổ sung, sự hiện diện của gan nhiễm mỡ, hoặc kích thước đường mật. Tại thời điểm sau cắt túi mật nội soi và 3 tháng sau khi cắt túi mật nội soi, các thông số máu, chẳng hạn như WBC, Hb, Hct, PLT, TP, ALB, FBS, Cr, BUN, AST, ALP, TG, TC, HDL-C và LDL-C là không khác biệt đáng kể giữa bệnh nhân có triệu chứng và không có triệu chứng .
3.Chế độ ăn uống của bệnh nhân có triệu chứng và không có triệu chứng
Sau phẫu thuật nội soi cắt túi mật, không có sự khác biệt đáng kể trong việc tiêu thụ các chất dinh dưỡng hoặc thực phẩm giữa bệnh nhân có triệu chứng và không có triệu chứng. Tuy nhiên, 3 tháng sau phẫu thuật cắt túi mật nội soi, những bệnh nhân có triệu chứng thường ăn nhiều protein động vật, cholesterol, trứng và ít rau hơn những bệnh nhân không có triệu chứng . Không có sự khác biệt đáng kể trong việc tiêu thụ vitamin, khoáng chất hoặc các thực phẩm khác giữa bệnh nhân có triệu chứng và không có triệu chứng 3 tháng sau khi cắt túi mật nội soi . Ngoài ra, đối với bữa sáng, những bệnh nhân có triệu chứng ăn nhiều bánh mì hơn, trong khi những bệnh nhân không có triệu chứng ăn nhiều cơm hơn.
4.Kết luận
Nghiên cứu này cho thấy nguy cơ mắc hội chứng sau phẫu thuật cắt túi mật có liên quan với việc ăn nhiều protein động vật, cholesterol và trứng, và có liên quan với việc ăn ít rau ở bệnh nhân 3 tháng sau phẫu thuật cắt túi mật nội soi. Ngoài ra, 3 tháng sau khi cắt túi mật nội soi, những bệnh nhân có triệu chứng ăn nhiều bánh mì hơn vào bữa sáng, trong khi những bệnh nhân không có triệu chứng ăn nhiều cơm hơn. Tuy nhiên, không có mối liên hệ đáng kể nào ngay lập tức sau phẫu thuật cắt túi mật giữa hội chứng sau phẫu thuật cắt túi mật và chế độ ăn uống. Các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng tiêu chảy sau phẫu thuật cắt túi mật đã được báo cáo ở những bệnh nhân không tuân theo hướng dẫn chế độ ăn ít chất béo và không dung nạp thức ăn giàu chất béo . Sự kém hấp thu acid mật đã được chứng minh là có liên quan đến tiêu chảy ở người , và việc tiết axid mật có liên quan đến lượng chất béo ăn vào. Do đó, các nghiên cứu trước đây cho rằng chế độ ăn nhiều chất béo có thể liên quan đến tiêu chảy sau phẫu thuật cắt túi mật, do những thay đổi trong chuyển hóa axid mật. Tuy nhiên, nghiên cứu hiện tại không tìm thấy mối liên quan đáng kể giữa việc tiêu thụ chất béo và nguy cơ mắc các hội chứng sau phẫu thuật cắt túi mật. Sự mâu thuẫn giữa các nghiên cứu hiện tại và trước đây có thể là do các bệnh nhân trong nghiên cứu hiện tại không tiêu thụ chế độ ăn nhiều chất béo, vì lượng chất béo tiêu thụ trung bình là khoảng 25 g / ngày và chỉ chiếm 7% đến 8% tổng năng lượng ăn vào. Sau phẫu thuật cắt túi mật, bệnh nhân báo cáo các triệu chứng khó tiêu đầy hơi, có thể liên quan đến trào ngược dạ dày tá tràng và làm chậm quá trình làm rỗng dạ dày . Trước đây,triệu chứng không dung nạp thức ăn đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân mắc chứng khó tiêu sau phẫu thuật cắt túi, đặc biệt là chứng không dung nạp trứng . Pelletier và cộng sự cũng phát hiện ra rằng bữa sáng với bánh mì và trứng luộc làm chậm quá trình làm rỗng dạ dày ở những người tình nguyện khỏe mạnh, cho thấy rằng việc làm chậm quá trình làm rỗng dạ dày do ăn trứng có thể liên quan đến hội chứng hậu phẫu.Sự kém hấp thu axid mật đã được chứng minh là gây ra tiêu chảy sau phẫu thuật cắt túi mật , vì không có túi mật gây ra quá trình chuyển hóa axid mật nhanh hơn ở gan ruột, tăng tiết axid mật và rút ngắn thời gian vận chuyển xuống đại tràng . Ngoại trừ nghiên cứu hiện tại, không có nghiên cứu nào chỉ ra bất kỳ mối liên quan nào giữa các hội chứng hậu phẫu và ăn rau. Tuy nhiên, những bệnh nhân bị rối loạn tiêu hóa chức năng, chẳng hạn như hội chứng ruột kích thích, tiêu thụ ít rau hơn ở những đối tượng khỏe mạnh ở Đài Loan. Kết luận, nghiên cứu hiện tại cho thấy rằng hội chứng hậu phẫu có liên quan tiêu cực với việc tiêu thụ nhiều cholesterol, protein động vật và trứng, và liên quan tich cực với việc ăn rau, cho thấy rằng chế độ ăn uống đóng một vai trò trong hội chứng sau cắt túi mật. Tuy nhiên, các thử nghiệm lâm sàng là cần thiết để xác nhận mối quan hệ nguyên nhân – kết quả giữa chế độ ăn uống và Hội chứng sau cắt túi mật (Postcholecystectomy syndrome – PCS).